* Cơ quan ban hành: Quốc hội.
* Ngày ban hành: 13/11/2020.
* Ngày có hiệu lực: 01/01/2022.
* Văn bản được sửa đổi, bổ sung: Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Thi hành án dân
sự.
* Nội dung chính:
Luật sửa đổi được
Quốc hội thông qua gồm 3 Điều với nhiều điểm mới quan trọng:
Nguyên tắc xử lý vi
phạm hành chính
Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành vừa quy định hành
vi "vi phạm hành chính nhiều lần" thì bị xử phạt về từng hành vi vi
phạm, vừa quy định “vi phạm hành chính nhiều lần” là tình tiết tăng nặng. Tuy
nhiên, quá trình thực hiện quy định này gặp vướng mắc do các Nghị định quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực không quy định cụ thể hành vi
vi phạm hành chính nhiều lần nào thì bị xử phạt về từng lần vi phạm, trường hợp
nào thì bị xử phạt 01 lần và áp dụng tình tiết tăng nặng “vi phạm hành chính
nhiều lần”.
Vì vậy, để khắc phục
bất cập trên, Luật sửa đổi đã quy định tại Khoản 2 Điều 1 – sửa đổi, bổ sung
Điểm d Khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng: một người thực
hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị
xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần
được Chính phủ quy định áp dụng tình tiết tăng nặng. Như vậy, về cơ bản trường
hợp “vi phạm hành chính nhiều lần” sẽ bị xử phạt về từng hành vi vi phạm; chỉ
xử phạt 01 lần và áp dụng tình tiết tăng nặng “vi phạm hành chính nhiều lần”
khi có quy định cụ thể của Chính phủ (tại các Nghị định về xử phạt vi phạm hành
chính trong từng lĩnh vực) về áp dụng tình tiết tăng nặng đối với trường hợp vi
phạm hành chính nhiều lần đó.
Tăng mức phạt tiền
tối đa
Trên cơ sở thực tiễn
thi hành, mức phạt tiền tối đa của nhiều lĩnh vực theo quy định hiện hành còn
thấp, chưa đủ sức răn đe, chưa thực sự tương xứng với tính chất, mức độ của
hành vi vi phạm. Vì thế, Luật sửa đổi đã tăng mức phạt tiền tối đa của 10 lĩnh
vực như thủy lợi, kinh doanh bất động sản, báo chí, v.v...được quy định cụ thể
tại Khoản 10 Điều 1- sửa đổi, bổ sung Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Ngoài ra, Luật sửa
đổi đã bổ sung quy định mức phạt tiền tối đa trong một số lĩnh vực mới chưa
được Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định như lĩnh vực an ninh
mạng, an toàn thông tin mạng để đồng bộ với Luật An ninh mạng; mức phạt tiền
tối đa trong hoạt động kiểm toán nhà nước (sửa đổi, bổ sung Điểm c Khoản 1 Điều
24 Luật Xử lý vi phạm hành chính) để thống nhất với Luật Kiểm toán nhà nước; ....
Bên cạnh đó, quy định
về mức phạt tối đa trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp và hoạt
động xuất cảnh, nhập cảnh đã được lược bỏ vì kinh doanh theo phương thức đa cấp
là một hình thức kinh doanh thuộc lĩnh vực thương mại đã được quy định mức phạt
tiền tối đa là 100 triệu đồng (sửa đổi bổ sung Điểm đ Khoản 1 Điều 24 Luật Xử
lý vi phạm hành chính); hoạt động xuất cảnh, nhập cảnh thuộc lĩnh vực an ninh
trật tự, an toàn xã hội đã được quy định mức phạt tiền tối đa là 40 triệu đồng
(sửa đổi, bổ sung Điểm b Khoản 1 Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính).
Thẩm quyền xử phạt
Luật sửa đổi đã bổ
sung thêm nhiều chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để phù hợp
với sự thay đổi, điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước.
Cụ thể, Luật sửa đổi
đã bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Kiểm toán nhà nước để bảo
đảm thống nhất, đồng bộ với Luật Kiểm toán nhà nước (Khoản 24 Điều 1- bổ sung
Điều 48a Luật XLVPHC); chỉnh lý quy định thẩm quyền xử phạt của các chức danh
thuộc Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia (Khoản 20 Điều 1- bổ sung Điều 45a Luật Xử lý
vi phạm hành chính). Trong đó, quy định về thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Ủy
ban Cạnh tranh Quốc gia trong Luật sửa đổi đã được chỉnh lý theo hướng việc xử
phạt đối với các hành vi vi phạm về cạnh tranh được thực hiện theo Luật Cạnh tranh.
Việc bổ sung thẩm
quyền xử phạt của chức danh này trong Luật Xử lý vi phạm hành chính là để xử
phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính khác để nhằm bảo đảm tính đầy đủ,
tính thống nhất, tránh chồng chéo.
Ngoài ra, Luật sửa
đổi đã bổ sung quy định về thẩm quyền xử phạt của cơ quan Thi hành án dân sự.
Khoản 5 Điều 49 của Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành và Luật sửa đổi đều
quy định thẩm quyền xử phạt của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự,
tuy nhiên Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung một số
điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 23/2018/QH14 không quy
định thẩm quyền xử phạt của chức danh này nên chưa bảo đảm tính thống nhất.
Thực tiễn thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính thời gian qua cho
thấy, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự vẫn thực hiện thẩm quyền xử
phạt theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do vậy, để bảo đảm thống
nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với thực tiễn thi hành, Luật sửa đổi đã bổ
sung thẩm quyền xử phạt của Tổng cục trưởng Tổng cục thi hành án dân sự vào
Khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành án dân sự (Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính).
Luật sửa đổi cũng đã
bổ sung thêm 08 nhóm chức danh (chủ yếu thuộc các cơ quan được tổ chức theo
ngành dọc ở cấp tỉnh hoặc liên tỉnh) có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính không phụ thuộc vào giá trị tang vật, phương tiện; các
chức danh khác có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện có giá trị không
vượt quá 02 lần mức tiền phạt theo thẩm quyền.
Thủ tục xử phạt
Luật Xử lý vi phạm
hành chính hiện hành chỉ quy định người có thẩm quyền phải “kịp thời” lập biên
bản vi phạm hành chính, điều này dẫn đến một số khó khăn, vướng mắc trong thực
tiễn thi hành do không định lượng được thế nào là “kịp thời” trong từng trường
hợp, lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, Luật sửa đổi đã chỉnh lý theo hướng
“phải kịp thời lập biên bản” (Khoản 29 Điều 1 - sửa đổi, bổ sung Điều 58 Luật
Xử lý vi phạm hành chính) và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.
Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định cụ thể về thời hạn lập biên bản để tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc hiện nay, bảo đảm phù hợp với từng lĩnh vực, từng hoạt động
quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, Luật sửa
đổi cũng đã bổ sung quy định về phát hiện vi phạm hành chính bằng phương tiện,
thiết bị nghiệp vụ theo hướng người có thẩm quyền được sử dụng phương tiện,
thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm về phòng, chống tác hại của
rượu, bia để thống nhất với Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia; lĩnh vực “phòng,
chống ma túy” nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm
soát ma túy theo Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị; lĩnh vực “phòng
cháy, chữa cháy” để phù hợp với thực tiễn, nâng cao hiệu trong việc phát hiện,
xử lý hành vi vi phạm về phòng cháy, chữa cháy theo tinh thần của Nghị quyết số 99/2019/QH14 của Quốc hội về tiếp tục hoàn
thiện, nâng cao hiệu lực hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về phòng cháy
và chữa cháy. Đối với các lĩnh vực khác, Luật sửa đổi đã giao Chính phủ quy
định lĩnh vực được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát
hiện vi phạm hành chính sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
(Khoản 32 Điều 1- sửa đổi, bổ sung Điều 64 Luật Xử lý vi phạm hành chính). Đồng
thời, Luật đã bổ sung quy định giao Chính phủ quy định chi tiết việc sử dụng,
bảo quản kết quả thu thập được bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ.
Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định cụ thể trình tự, thủ tục trong việc sử dụng
kết quả thu thập được, bảo đảm đúng nguyên tắc mọi hành vi vi phạm phải được
phát hiện kịp thời, việc xử phạt phải được tiến hành nhanh chóng, công khai,
đúng quy định của pháp luật.
Quy định về hoãn,
miễn, giảm tiền phạt
Luật sửa đổi đã bổ
sung quy định về hoãn tiền phạt đối với tổ chức bị phạt tiền từ 100.000.000
đồng trở lên và đang gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên
tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh thay vì chỉ áp dụng hoãn tiền phạt đối với
cá nhân ở Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành.
Bên cạnh đó, Luật
cũng sửa đổi quy định về số tiền được hoãn thi hành áp dụng cho cá nhân theo xu
hướng giảm số tiền được hoãn phạt từ 3.000.000 trở lên ở Luật hiện hành xuống
còn 2.000.000 đồng trở lên đối với những cá nhân đang gặp khó khăn về kinh tế
do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, mắc bệnh hiểm nghèo (Khoản 37 Điều
1- sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 76 Luật Xử lý vi phạm hành chính).
Ngoài ra, Luật sửa
đổi cũng bổ sung quy định về giảm, miễn tiền phạt cho tổ chức tại Khoản 38 Điều
1- sửa đổi, bổ sung Điều 77 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Việc sửa đổi
những quy định như trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho không chỉ cá
nhân mà cả các tổ chức thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp họ gặp khó
khăn về kinh tế do những sự kiện đột xuất, bất ngờ như thiên tai, hỏa hoạn,
dịch bệnh, tai nạn mà không phải là chính sách xã hội.
Quy định về biện pháp
ngăn chặn và bảo đảm xử lý hành chính
Khoản 61 Điều 1 Luật
sửa đổi đã bổ sung 04 trường hợp tạm giữ người trong khi Điều 122 Luật Xử lý vi
phạm hành chính hiện hành chỉ quy định 01 trường hợp. Trong đó, quy định trường
hợp “tạm giữ người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc
theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình” là cần thiết để
bảo đảm thống nhất, đồng bộ với Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; trường hợp “tạm giữ người
để bảo đảm thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” cũng phù hợp để bảo đảm thi
hành quyết định áp dụng các biện pháp này. Bên cạnh đó, trường hợp “tạm giữ
người để xác định tình trạng nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép chất
ma túy” cũng được bổ sung nhằm khắc phục vướng mắc trong thực tiễn công tác
phòng, chống ma túy thời gian qua, bảo đảm tính khả thi của quy trình xác định
tình trạng nghiện ma túy theo hướng dẫn của liên ngành y tế, lao động, thương
binh và xã hội, công an đang được áp dụng.
Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính nhằm tiếp tục hoàn thiện các cơ
chế, chính sách, trình tự, thủ tục trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
và khắc phục tối đa những hạn chế, bất cập trong các quy định của Luật Xử lý vi
phạm hành chính; góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính trên thực tế, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn
xã hội. Để thi hành Luật sửa đổi, Chính phủ, các Bộ, ngành cần sửa đổi, bổ sung
hoặc ban hành mới nhiều Nghị định, Thông tư quy định cụ thể về xử phạt vi phạm
hành chính. Do vậy, Luật sửa đổi có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2022, thay vì
như phương án đề xuất ban đầu là từ ngày 1/7/2021 nhằm tạo điều kiện cho các cơ
quan có thời gian rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các văn bản quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật.
* Thủ tục hành chính giao cho địa phương: Không.
* Nội dung giao cho địa phương:
- Trách nhiệm xây dựng
thể chế: Không có quy định trực tiếp.
- Trách nhiệm của
UBND cấp tỉnh: Không có quy định trực tiếp./.