Thông tư hướng dẫn quản lý tài chính nhà nước đối với vốn
viện trợ không hoàn lại của nước ngoài (gọi chung là viện trợ) thuộc nguồn thu
ngân sách nhà nước (NSNN), bao gồm:
Viện trợ hỗ trợ ngân sách cho ngân sách trung ương hoặc cho
ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Viện trợ độc lập hoặc viện trợ kèm theo khoản vay cho chương
trình, dự án thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương (bao gồm cả nhiệm vụ
chi bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho ngân sách cấp tỉnh), hoặc
viện trợ trực tiếp cho chương trình, dự án thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách cấp
tỉnh;
Viện trợ phi dự án để hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ chi của ngân
sách trung ương, bao gồm cả chi bổ sung có mục tiêu cho ngân sách cấp tỉnh,
hoặc trực tiếp hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ chi của ngân sách cấp tỉnh.
Thông tư quy định việc quản lý tài chính đối với khoản viện
trợ được thực hiện theo các nguyên tắc như:
Mọi khoản viện trợ đều phải được phân loại, quản lý, theo
dõi và hạch toán theo từng phương thức tài trợ (chương trình, dự án hoặc phi dự
án); tính chất khoản chi ngân sách nhà nước (chi thường xuyên, chi đầu tư, phát
triển hoặc chi khác của NSNN), phương thức tổ chức thực hiện (bên tài trợ nước
ngoài trực tiếp, hoặc ủy thác một tổ chức khác thực hiện hoặc chủ chương trình,
chủ dự án bên Việt Nam thực hiện).
Vốn viện trợ không hoàn lại thuộc nguồn thu NSNN được dự
toán, hạch toán đầy đủ, kịp thời; quyết toán theo quy định về quyết toán thu,
chi ngân sách nhà nước và quyết toán chi của chương trình, dự án, khoản viện
trợ.
Cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm lập dự toán thu, chi NSNN
sát khả năng thực hiện trong năm để tiếp nhận, thực hiện, hạch toán, quyết toán
thu chi NSNN đối với khoản viện trợ theo quy định tại Thông tư này; kịp thời đề
xuất bố trí dự toán bổ sung trong trường hợp phát sinh nhu cầu thu, chi viện
trợ đột xuất; chi tiếp nhận vốn viện trợ khi có nhu cầu, khả năng sử dụng.
Việc xử lý dự toán thu, chi các khoản viện trợ cuối năm được
thực hiện theo quy định về pháp luật quản lý NSNN.
Mọi khoản viện trợ bằng tiền do chủ chương trình, dự án phía
Việt Nam trực tiếp quản lý, thực hiện: Được chuyển vào một tài khoản riêng mở
tại Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng thương mại ngay khi tiếp nhận; được theo
dõi, hạch toán, quyết toán riêng theo từng khoản viện trợ cụ thể; Không chuyển
vốn viện trợ cho chương trình, dự án cụ thể vào tài khoản cá nhân, thuê, mượn
hoặc tài khoản chung của cơ quan, đơn vị khi tiếp nhận. Không mở tài khoản tại
nước ngoài để tiếp nhận vốn viện trợ, trừ trường hợp có yêu cầu theo quy định
pháp luật của bên tài trợ và được quy định tại Thỏa thuận viện trợ/Hiệp định
viện trợ.
Các khoản viện trợ bằng tiền do chủ chương trình, dự án bên
Việt Nam thực hiện phải kiểm soát chi theo quy định pháp luật về kiểm soát chi
NSNN.
Việc hạch toán vào ngân sách nhà nước được thực hiện trên cơ
sở đề xuất của chủ chương trình, dự án, phi dự án; dự toán được cấp có thẩm
quyền giao và hồ sơ thanh toán theo quy định.
Đối với các khoản viện trợ do bên tài trợ cung cấp theo hình
thức hàng hóa, hiện vật, công trình bao gồm khoản viện trợ theo hình thức chìa
khóa trao tay, cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm toàn diện trong việc quản lý,
theo dõi, phân bổ, phối hợp với nhà tài trợ để xác định giá trị khoản hiện vật
được viện trợ cho bên Việt Nam và thực hiện việc hạch toán thu, chi NSNN, quyết
toán theo quy định.
Thông tư quy định rõ sự phân cấp, phân quyền và trách nhiệm
thực hiện quản lý nguồn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài:
Theo đó, Bộ Tài chính thực hiện: Hướng dẫn chế độ quản
lý tài chính đối với nguồn vốn viện trợ; Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
quy định về quản lý tài chính nhà nước đối với việc quản lý, sử dụng vốn viện
trợ của ngân sách trung ương; Thẩm định quyết toán thu, chi nguồn vốn viện trợ
hằng năm của ngân sách trung ương.
Sở Tài chính thực hiện: Kiểm tra, giám sát việc thực hiện
các quy định về quản lý tài chính nhà nước đối với việc quản lý, sử dụng vốn
viện trợ của ngân sách địa phương; Thẩm định quyết toán thu, chi nguồn vốn viện
trợ hằng năm của ngân sách cấp tỉnh; Thực hiện trách nhiệm báo cáo theo quy
định của pháp luật và quy định của Thông tư này.
Kho bạc Nhà nước thực hiện: Mở tài khoản viện trợ cho các cơ
quan đơn vị tiếp nhận viện trợ; Thực hiện theo dõi các khoản tiền viện trợ được
chuyển vào tài khoản của chủ chương trình, dự án và thực hiện việc kiểm soát
chi, giải ngân, hạch toán, ghi thu ghi chi ngân sách nhà nước đối với nguồn
viện trợ theo quy định; Thực hiện trách nhiệm báo cáo theo quy định của pháp
luật và quy định tại Thông tư này. Đối với viện trợ theo cơ chế tài chính trong
nước, việc thực hiện báo cáo áp dụng như quy định tại Thông tư số 15/2021/TT-BTC
ngày 18 tháng 02 năm 2021 của Bộ Tài chính quy định về chế độ và biểu mẫu báo
cáo tình hình thực hiện, thanh toán kế hoạch vốn đầu tư công.
Cơ quan Hải quan thực hiện: Kiểm tra, thông quan hàng hóa
viện trợ theo quy định; Chế độ báo cáo theo quy định của pháp luật.
Ngân hàng thương mại nơi chủ chương trình, dự án mở tài
khoản tiếp nhận vốn viện trợ thực hiện việc giải ngân nguồn vốn viện trợ và
cung cấp thông tin, chế độ báo cáo theo quy định của pháp luật và quy định tại
Thông tư này.