Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm
hành chính được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 13/11/2020,
Luật có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022, xin giới thiệu những nội dung mới cảu
Luật như sau:
1. Về những
quy định chung
Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số quy định
chung tại Phần thứ nhất của Luật XLVPHC bao gồm: Sửa đổi, bổ sung quy định về
khái niệm tái phạm (khoản 5 điều 2 Luật XLVPHC); nguyên tắc xử lý vi phạm hành
chính đối với vi phạm hành chính nhiều lần (điểm d khoản 1 điều 3 của Luật
XLVPHC); thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính (điều 6 Luật XLVPHC); thẩm quyền
quy định về xử phạt vi phạm hành chính về chế đọ áp dụng các biện pháp xử lý vi
phạm hành chính (điều 4 Luật XLVPHC); hành vi bị nghiêm cấm (điều 12 Luật
XLVPHC), cụ thể:
1.1. Về thuật
ngữ tái phạm
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung khoản 5 điều 2
Luật XLVPHC về giải thích từ ngữ “tái phạm”, theo đó, tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi
phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt; cá
nhân đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa hết thời
hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà lại thực hiện hành
vi thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó.
1.2. Về xử lý hành vi vi phạm hành chính nhiều lần
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa
đổi, bổ sung điểm d khoản 1 điều 3 Luật XLVPHC quy định cụ thể về nguyên tác xử
phạt đối với từng hành vi trong trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần”. Theo
đó, một người thực hiện vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng
hành vi vi phạm, trừ trường hợp hành vi vi phạm hành chính nhiều lần được Chính
phủ quy định là tình tiết tăng nặng.
1.3. Về thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính
và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.
Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi,
bổ sung quy định liên quan đến thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành
chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại điều 4 Luật XLVPHC,
cụ thể: Bổ sung quy định Chính phủ được giao quy định hành vi vi phạm hành
chính đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện; đối tượng bị xử
phạt; việc thi hành các hình thức xử phạt vi phạm hành chính; các biện pháp khắc
phục hậu quả trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước bên cạnh thẩm quyền được giao
quy định hành vi vi phạm hành chính; hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt,
mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh và thẩm quyền lập biên bản đối với
hành vi vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Quy định này
nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống các nghị định xử phạt vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Bên cạnh đó, Luật cũng làm
rõ hơn quy định về việc sử dụng biểu mẫu trong xử lý vi phạm hành chính. Theo
đó, biểu mẫu được sử dụng trong xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo
quy định của Chính phủ.
1.4. Về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính
Liên quan đến thời hiệu xử
lý vi phạm hành chính, Luật sửa đổi, bổ sung một số điểm của khoản 1 và khoản 2
điều 6 Luật XLVPHC về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, theo đó:
+ Tăng thời hiệu xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hóa đơn lên 02 năm, đồng thời, quy định rõ vi phạm
hành chính về thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật về quản lý thuế.
+ Sửa đổi quy định về thời
hiệu áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại điểm a và điểm b khoản 2 điều 6
Luật XLVPHC nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với những nội dung được sửa đổi,
bổ sung về các biện pháp xử lý hành chính.
+ Bổ sung quy định về việc
tính thời hiệu trong trường hợp cá nhân cố tình trốn tránh, cản trở việc áp dụng
biện pháp xử lý hành chính theo hướng thời hiệu được tính lại kể từ thời điểm
chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
1.5. Về những hành vi bị nghiêm cấm
Luật bổ sung một số hành vi
bị nghiêm cấm trong xử lý vi phạm hành chính tại điều 12 Luật XLVPHC như: Xác định
hành vi vi phạm hành chính không đúng; áp dụng hình thức xử phạt, mức xử phạt,
biện pháp khắc phục hậu quả không đúng, không đầy đủ đối với hành vi vi phạm
hành chính; không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả.
2. Về xử phạt vi phạm hành chính
2.1. Về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực
Luật đã sửa đổi, bổ sung điều
24 Luật XLVPHC theo hướng: tăng mức phạt tối đa trong một số lĩnh vực; bổ sung
mức phạt tối đa cho một số lĩnh vực chưa được quy định tại điều 24 Luật XLVPHC;
chỉnh sửa tên gọi một số lĩnh vực cho phù hợp với các Luật hiện hành.
2.2. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Một là, Luật sửa đổi, bổ
sung tên gọi, bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.Bên
cạnh đó Luật cũng đã bổ sung quy định về thẩm quyền xử phạt của cơ quan thi
hành án dân sự.
Hai là, Luật sửa đổi quy định
về thẩm quyền xử phạt của một số chức danh theo hướng tăng thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính.
Ba là, Luật sửa đổi, bổ sung
Điều 53 quy định cụ thể về những trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt có
sự thay đổi về tên gọi.
Bốn là, Liên quan đế vấn đề
giao quyền xử phạt vi phạm hành chính, Luật XLVPHC đã quy định vấn đề giao quyền
xử phạt cho cấp phó tại Điều 54; khoản 2 điều 87 (giao quyền cưỡng chế thi hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính). Tuy nhiên, Luật XLVPHC chưa có quy định
cụ thể về việc giao cho cấp phó có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn
và bảo đảm việc xử phạt vi phạm hành chính cũng như các quyết định khác trong xử
lý vi phạm hành chính. Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trên, Luật đã sửa đổi, bổ
sung điều 54 theo hướng quy định về việc cấp trưởng giao quyền cho cấp phó áp dụng
biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính tại các khoản 2, 3, 4,
5, 6 và 7 điều 119 của Luật XLVPHC; đồng thời Luật cũng quy định rõ văn bản
giao quyền phải được thể hiện bằng quyết định.
2.3. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
- Luật sửa đổi, bổ sung các
quy định về lập biên bản vi phạm hành chính (điều 58 Luật XLVPHC) theo hướng
quy định nguyên tắc “phải kịp thời lập biên bản” và giao cho Chính phủ quy định
chi tiết nội dung này.
- Luật sửa đổi thời hạn định
giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại khoản 3 Điều 60 Luật XLVPHC từ
24 giờ lên 48 giờ.
- Sửa đổi, bổ sung quy định
về các trường hợp giải trình tại Điều 61 Luật XLVPHC nhằm bảo đảm tính khả thi
trên thực tế, đồng thời, bảo đảm nâng cao hơn nữa quyền giải trình của cá nhân,
tổ chức vi phạm. Theo đó, đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật có
quy định hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có
thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc quy định mức tối đa của khung
tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ
30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền
giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính.
Về thời hạn giải trình, Luật
sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn đối với trường hợp giải trình bằng văn bản,
theo đó, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải gửi văn bản giải trình cho
người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính từ “ trong thời hạn không quá 05
ngày” thành “trong thời hạn 05 ngày làm việc”, kể từ ngày lập biên bản vi phạm
hành chính. Trong trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì người có
thẩm quyền xử phạt có thể gia hạn nhưng không quá 05 ngày làm việc theo đề nghị
của cá nhân, tổ chức vi phạm. Đồng thời, Luật quy định rõ việc gia hạn của người
có thẩm quyền xử phạt bằng văn bản. Đối với trường hợp giải trình trực tiếp, Luật
sửa quy định về việc người có thẩm quyền xử phạt phải thông báo bằng văn bản
cho người vi phạm về thời gian và địa điểm tổ chức phiên giải trình trực tiếp từ
“ trong thời hạn 05 ngày” thành “trong thời hạn 05 ngày làm việc” kể từ ngày nhận
được yêu cầu của người vi phạm.
- Về thời hạn ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính tại Điều 66 Luật XLVPHC, luật sửa đổi, bổ sung như
sau: “ Đối với vụ việc không thuộc trường
hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản này, thời hạn ra quyết định xử phạt là 07
ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính;…..”
- Sửa đổi, bổ sung Điều 64
Luật XLVPHC theo hướng mở rộng lĩnh vực được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ
thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính. Theo đó, Luật đã bổ sung các
lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống ma túy, phòng, chống
tác hại của rượu, bia bên cạnh lĩnh vực trật tư, an toàn giao thông, bảo vệ môi
trường.
- Về xử lý tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu, Luật đã sửa đổi, bổ sung các quy
định có liên quan đến vấn đề này nhằm khắc phục những bất cập phát sinh trong
thực tiễn như việc xác minh chủ sở hữu phương tiện, việc xử lý đối với các
phương tiện có giá trị thấp hoặc không còn giá trị rất khó khăn, mất nhiều thời
gian; cụ thể như sau:
+ Đối với tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, khoản 4 Điều 126 đã sửa đôi, bổ sung quy định
cụ thể, rõ ràng hơn việc thông báo, niêm yết công khai về tang vật, phương tiện
bị tạm giữ (số lần thông báo, thời hạn thông báo, xử lý tài sản sau khi hết thời
hạn thông báo, niêm yết công khai…).
Đồng thời, Luật số 67/2020/QH14
cũng quy định về việc xử lý đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
thuộc trường hợp bị tịch thu nhưng đã đăng ký biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản
theo quy định của pháp luật dân sự. Theo đó, đối với trường hợp này thì bên nhận
thế chấp được nhận lại tang vật, phương tiện hoặc giá trị tương ứng với nghĩa vụ
được bảo đảm; cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị
giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ngân sách nhà nước. Đối với
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, để đảm bảo thống nhất với
quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và các văn bản hướng dẫn
thi hành, Luật số 67/2020/QH14 quy định theo hướng viện dẫn: “ Tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính đã có quyết định tịch thu được xử lý theo quy định của
pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công” (bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều
81 Luật XLVPHC), đồng thời, bãi bỏ Điều 82 Luật XLVPHC.
2.4. Về việc thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính
Một là, Luật số 67/2020/QH14 quy định rõ hơn trường hợp không
ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính những vẫn áp dụng tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định
thì không bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính để bảo đảm tính rõ ràng
hơn khi áp dụng pháp luật tại Điều 65 Luật XLVPHC, cụ thể:
+ Người có thẩm quyền không
ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với những trường hợp quy định tại
các điểm a, b, c, d khoản 1 điều 65 Luật XLVPHC, nhưng vẫn phải ra quyết định tịch
thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phưng tiện vi phạm
hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc tang vật, phương tiện mà
pháp luật có quy định hình thức xử phạt tịch thu và áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính đó.
+ Đối với trường hợp hết thời
hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (quy định tại khoản 1 điều
74 Luật XLVPHC) thì không thi hành quyết định đó nữa, nhưng vẫn phải tịch thu
tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả nếu quyết định xử phạt
có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính,
biện pháp khắc phục hậu quả.
+ Đối với trường hợp hết thời
hiệu thi hành quyết định cưỡng chế (quy định tại khoản 2a điều 88 Luật XLVPHC)
thì không thi hành quyết định cưỡng chế đó, nhưng vẫn phải cưỡng chế tịch thu
tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp quyết
định xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
Hai là, Luật sửa đổi, bổ sung quy định về hoãn, giảm, miễn tiền
phạt tại Điều 76 và điều 77 Luật XLVPHC theo hướng:
- Việc hoãn thi hành quyết định
phạt tiền được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
a)
Cá nhân bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng trở lên, tổ chức bị phạt tiền từ
100.000.000 đồng trở lên;
b)
Cá nhân đang gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch
bệnh, mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn; tổ chức đang gặp khó khăn đặc
biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh.
Trường
hợp cá nhân gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch
bệnh, mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, làm
việc; trường hợp cá nhân gặp khó khăn về kinh tế do mắc bệnh hiểm nghèo, tai
nạn thì phải có thêm xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến huyện trở
lên.
Trường
hợp tổ chức đang gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch
bệnh thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực
tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.
- Việc giảm một phần tiền phạt
ghi trong quyết định xử phạt đối với cá nhân, tổ chức đã được hoãn thi hành quyết
định phạt tiền được áp dụng khi:
a)
Cá nhân tiếp tục gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch
bệnh, mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn và có xác nhận của Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, làm
việc;
b)
Tổ chức tiếp tục gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai,
thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban
quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan
Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.
Ba
là, Luật XLVPHC chưa có quy định về
thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính. Do vậy, tại điều 88 Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung quy
định cụ thể về thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính.
3.
Về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
3.1.
Về đối tượng, điều kiện áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các
quy định liên quan đến đối tượng và điều kiện áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính tại các Điều 90,92,94 và 96 Luật XLVPHC để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ
với BLHS; quy định về độ tuổi, số lần vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính…
bảo đảm phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi, cụ thể:
- Quy định cụ thể các hành vi vi phạm là điều
kiện để áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phương, thị trấn;
- Làm rõ hơn quy định “02 lần trở lên trong
06 tháng”, thống nhất trong cách áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn;
- Bỏ quy định về việc đối tượng phải vi phạm
“02 lần trong 06 tháng” là điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc để tránh kéo dài thời gian áp dụng các
biện pháp này;
- Bổ sung quy định về việc áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với
người sử dụng trái phép chất ma túy (người từ đủ 14 tuổi trở lên đã hai
lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần
thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy);
- Sửa đổi quy định về đối tượng áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo hướng dẫn chiếu
đến Luật phòng, chống ma túy nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của pháp
luật; bỏ quy định áp dụng biện pháp “tiền đề” giáo dục tại xã, phường, thị trấn
đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định;
- Bổ sung quy định áp dụng biện pháp xử lý
hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với 2 trường hợp: (1) người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập
biên bản tại lần vi phạm hứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây rối trật tự công
cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép mà không phải là
tội phạm; (2) người từ đủ 18 tuổi trở lên đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành
chính và bị lập biên bản tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một
trong các hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây
rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép,
hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình
mà không phải là tội phạm.
3.2.
Về thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các
quy định liên quan đến thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nhằm đơn
giản hóa thủ tục, rút ngắn tối đa các mốc thời gian thực hiện các công việc;
sửa đổi các quy định tại khoản 1 điều 98, khoản 3 điều 99, khoản 3 điều 101 và
khoản 3 điều 103 của Luật hiện hành liên quan đến thủ tục kiểm tra tính pháp lý
của hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo hướng:
+ Không quy định việc kiểm tra tính pháp lý
thành một thủ tục riêng biệt, độc lập;
+ Không quy định thẩm quyền kiểm tra tính
pháp lý của công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã đối với hồ sơ đề nghị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính giao dục tại xã, phường, thị trấn, Trưởng phòng tư
pháp cấp huyện đối với hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa
vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiên bắt buộc.
3.3.
Về việc quản lý đối tượng trong thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp
xử lý hành chính
Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại điều
131 Luật XLVPHC theo hướng:
Đối với người không có nơi cư trú ổn định
hoặc có nơi cư trú ổn định nhưng gia định không đồng ý quản lý thì cơ quan,
người có thẩm quyền lập hồ sơ quyết định: (1) giao cho trung tâm, cơ sở tiếp
nhận đối tượng xã hội hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc của tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương quản lý đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc hoặc (2) giao cho UBND cấp xã nơi người vi phạm cư trú
hoặc có hành vi vi phạm tổ chức quản lý trong trường hợp bị đề nghị áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
4.
Về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính
4.1.
Về biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính
Luật đã bổ sung vào khoản 1 điều 122 Luật
XLVPHC một số trường hợp phải tạm giữ người theo thủ tục hành chính như: Để thi
hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc; người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp
xúc theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; để xác định
tình trạng nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép chất ma túy bên cạnh
các trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi gây rối trật tự công cộng,
gây thương tích cho người khác và cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi buôn
lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
4.2.
Về biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
- Luật đã bổ sung vào khoản 3 điều 125 Luật
XLVPHC quy định cụ thể: thẩm quyền tạm giữ không phụ thuộc vào giá trị của tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính.
- Luật sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự,
thủ tục tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề tại các
khoản 4 và 9 điều 125 Luật XLVPHC theo hướng: (1) Người có thẩm quyền lập biên
bản vi phạm hành chính đang giải quyết vụ việc lập biên bản tạm giữ tang vật,
phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề; sau đó, trong thời hạn 24 giờ, kể
từ khi lập biên bản người lập biên bản phải báo cáo thủ trưởng của mình là
người có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để xem xét
ra quyết định tạm giữ; (2) Bỏ quy định về việc người có thẩm quyền ra quyết
định tạm giữ phải ký vào biên bản tạm giữ.
5.
Về biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên.
Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung vào khoản 1
điều 140 Luật XLVPHC đối tượng để quản lý tại gia đình đối với người từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi sử dụng trái phép chất ma túy bên cạnh các đối tượng tại
khoản 3, khoản 4 điều 90 Luật XLVPHC. Bên cạnh đó, bổ sung biện pháp giáo dục
dựa vào cộng đồng là một trong các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính
đối với người chưa thành niên (điều 140a) nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích tốt
nhất cho người chưa thành niên.
6.
Về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
Luật đã bãi bỏ quy định về việc báo cáo công
tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính định kỳ 06 tháng tại điều 17
Luật XLVPHC nhằm giảm bớt thủ tục và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và các
cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo./.