Thứ nhất, về việc phân chia tài sản khi ly hôn:
Theo Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.”
Theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn được quy định tại Khoản 1 Điều 59 thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 vợ chồng có quyền thỏa thuận về việc phân chia tài sản chung khi ly hôn.
Tuy nhiên nếu không thể thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án để giải quyết. Tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:
“2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch”.
Thứ hai, về quyền được nuôi con.
Theo Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 về Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Như vậy, sau khi ly hôn, vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau về người trực tiếp nuôi con, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ giao cho một bên nuôi căn cứ vào lợi ích của con, nếu con chị từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem nguyện vọng của con thế nào, trường hợp con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ, nếu mẹ đủ điều kiện nuôi con theo quy định pháp luật.
Theo điều 85 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên:
"1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
b) Phá tán tài sản của con;
c) Có lối sống đồi trụy;
d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
2. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này."
Trong trường hợp của chị, chồng chị đang chấp hành án phạt tù, nếu tội mà chồng chị thực hiện thuộc khoản 1 điều 85 trên thì chồng chị đã bị hạn chế quyền nuôi con của mình. Nhưng nếu chồng chị không bị kết án về các loại tội thuộc trường hợp nêu trên thì chồng chị vẫn có thể được quyền nuôi con sau khi chấp hành xong bản án. Tuy nhiên chồng chị phải đáp ứng được các điều kiện nuôi con theo quy định pháp luật như đủ điều kiện chăm sóc, trông nom, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho con thì mới có quyền nuôi con.