Quy định về quản lý gỗ nhập khẩu
Về quản lý gỗ nhập khẩu, Nghị định quy định gỗ
nhập khẩu phải đảm bảo hợp pháp, được làm thủ tục xuất - nhập khẩu và chịu sự
kiểm tra, giám sát của cơ quan Hải quan theo quy định của pháp luật về Hải
quan.
Quản lý gỗ nhập khẩu được thực hiện trên cơ sở
áp dụng biện pháp quản lý rủi ro để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý
kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm gỗ nhập khẩu hợp pháp, đồng
thời khuyến khích, tạo thuận lợi đối với tổ chức, cá nhân tuân thủ pháp luật.
Gỗ nhập khẩu được quản lý rủi ro theo các tiêu
chí xác định quốc gia thuộc vùng địa lý tích cực hoặc không tích cực, loại gỗ
thuộc loại rủi ro hoặc không thuộc loại rủi ro theo quy định.
Chủ gỗ nhập khẩu phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về: Nguồn gốc hợp pháp của gỗ nhập khẩu theo các quy định pháp luật
có liên quan của quốc gia nơi khai thác gỗ; tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về cung
cấp thông tin theo tiêu chí đánh giá vùng địa lý tích cực xuất khẩu gỗ vào Việt
Nam và tiêu chí xác định loại gỗ rủi ro nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định…
Quy định về quản lý gỗ xuất khẩu
Theo Nghị định, gỗ xuất khẩu phải đảm bảo hợp
pháp, được làm thủ tục xuất - nhập khẩu và chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ
quan Hải quan theo quy định của pháp luật về Hải quan.
Gỗ xuất khẩu được quản lý theo loại gỗ, thị
trường xuất khẩu và trên cơ sở kết quả phân loại doanh nghiệp chế biến và xuất
khẩu gỗ.
Gỗ xuất khẩu phải có giấy phép CITES hoặc giấy
phép FLEGT hoặc bảng kê gỗ theo quy định.
Lô hàng gỗ xuất khẩu đã được cấp phép FLEGT được
ưu tiên trong việc thực hiện thủ tục Hải quan theo quy định của pháp luật về
Hải quan.
Nghị định phân loại cụ thể doanh nghiệp chế biến
và xuất khẩu gỗ. Theo quy định có 2 loại doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhóm I và
doanh nghiệp Nhóm II.
Doanh nghiệp Nhóm I là những doanh nghiệp đáp
ứng đầy đủ các tiêu chí:
Tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật trong
việc thành lập và hoạt động ít nhất 1 năm kể từ ngày đăng ký thành lập doanh
nghiệp;
Tuân thủ quy định pháp luật về bảo đảm hỗ hợp
pháp theo quy định của Nghị định này và quy định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn về quản lý, truy xuất nguồn gỗ lâm sản;
Tuân thủ chế độ báo cáo theo quy định và lưu giữ
hồ sơ gốc theo quy định của pháp luât;
Không vi phạm pháp luật đến mức phải xử lý theo
quy định;
Các tiêu chí tại điểm 1 và 2 trên được quy định
chi tiết tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này.
Doanh nghiệp Nhóm II là doanh nghiệp chưa đáp ứng
được một trong các tiêu chí quy định ở trên.
Nghị định quy định rõ lô hàng gỗ xuất khẩu của
chủ gỗ không phải là doanh nghiệp Nhóm I phải xác nhận nguồn gốc gỗ trước khi
xuất khẩu.
Lô hàng gỗ có nguồn gốc từ gỗ rừng trồng trong
nước xuất khẩu sang thị trường ngoài EU thì không cần xác nhận.