Trong
đó, có những điểm mới so với Nghị định số 78/2009/NĐ-CP
và Nghị
định số 97/2014/NĐ-CP. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, bổ sung quy định về hủy giá trị
giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam đã cấp cho người thôi quốc tịch, tước
quốc tịch, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam
Khoản 1 Điều 4
Nghị định số 16/2020/NĐ-CP quy định: “Kể từ ngày Quyết định cho thôi quốc tịch Việt Nam, tước
quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam của một người
có hiệu lực pháp luật, giấy tờ quy định tại Điều 11 của Luật Quốc tịch Việt Nam
đã cấp cho người đó không còn giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam.”
Các giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định tại
Điều 11 Luật Quốc tịch gồm Giấy khai sinh; Giấy chứng minh nhân dân; Hộ chiếu
Việt Nam; Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Quyết định cho trở lại quốc
tịch Việt Nam, Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là người
nước ngoài, Quyết định cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi
Trong thực tế, có nhiều
trường hợp sau khi đã được Chủ tịch nước cho thôi quốc tịch Việt Nam nhưng vẫn sử dụng một trong các giấy tờ
trên để chứng minh tư cách công dân Việt Nam trong các giao dịch, làm ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người có liên quan và gây khó khăn cho cơ quan
nhà nước trong việc quản lý.
Để hạn chế các vi phạm xảy ra, Nghị định số 16/2020/NĐ-CP đã
quy định rất cụ thể và rõ ràng những giấy tờ có giá trị chứng minh quốc tịch
Việt Nam đã cấp cho người được thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định
cho nhập quốc tịch Việt Nam sẽ không còn giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam
của người đó kể từ ngày Quyết định cho thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch
Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam của một người có hiệu lực
pháp luật.
Nghị định cũng quy định trách nhiệm của Bộ Ngoại giao và Bộ
Công an trong việc xóa đăng ký thường trú, thu
hồi và hủy giá trị sử dụng Hộ chiếu Việt Nam, Chứng minh nhân dân, Căn cước
công dân của những trường hợp nêu trên. Ngoài ra, người được thôi quốc tịch, bị
tước quốc tịch, bị hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam cũng có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan Công an để làm thủ tục xóa đăng ký thường trú, nộp
lại Hộ chiếu Việt Nam, Chứng minh nhân dân, Căn cước công dân theo quy định của
pháp luật có liên quan.
Thứ hai, khẳng định lại nguyên tắc một quốc tịch Việt Nam theo Điều 4 của Luật
quốc tịch, tạo cách hiểu và áp dụng thống nhất pháp luật đối với người có quốc
tịch Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài
Tại Điều 4 của Luật quốc tịch Việt
Nam đã khẳng định rõ quan điểm: “Nhà nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công
nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”,
chỉ quy định một số trường hợp người xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam
không phải thôi quốc tịch nước ngoài “trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ
tịch nước cho phép” (theo khoản 3 Điều 19, khoản 2 Điều 23).
Để tạo cách hiểu và áp dụng thống
nhất pháp luật đối với người có quốc tịch Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước
ngoài, Nghị định số 16/2020/NĐ-CP đã khẳng định lại nguyên tắc một quốc tịch
Việt Nam, quy định về việc sử dụng quốc tịch của công dân Việt Nam đồng thời có
quốc tịch nước ngoài trong quan hệ với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam như
sau:
“Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận quốc tịch Việt Nam đối với công dân
Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong quan hệ với cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
có quy định khác”.
Thực hiện quy định
này, kể từ ngày 20/3/2020 trên tất cả các giấy tờ có mục ghi “quốc tịch” do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp cho công dân Việt Nam đồng thời có
quốc tịch nước ngoài chỉ được ghi “quốc tịch Việt Nam”; tuyệt đối không ghi
thêm quốc tịch nước ngoài của người đó, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên quy định khác.
Thứ ba, quy
định những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động quốc tịch
Luật quốc tịch Việt Nam và Nghị định số 78/2009/NĐ-CP đều
không có quy định về những hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động quốc tịch. Do
đó, để có cơ sở pháp lý xử lý các hành vi phát sinh trên thực tế, Điều 6 Nghị
định số 16/2009/NĐ-CP đã bổ sung quy định mới về các hành vi bị nghiêm cấm, cụ
thể như sau:
“1. Các hành vi sau
đây bị nghiêm cấm:
a) Dùng giấy tờ giả,
giấy tờ bị sửa chữa, tẩy xóa làm sai lệch nội dung; khai báo không trung thực,
có hành vi gian dối để làm thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch;
b) Dùng giấy tờ không
còn giá trị chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 4 của
Nghị định này để chứng minh đang có quốc tịch
Việt Nam;
c) Lợi dụng thẩm
quyền được giao để cấp giấy tờ về
quốc tịch Việt Nam, giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ khác có ghi quốc tịch Việt Nam trái quy định của pháp luật; xác nhận không có cơ sở, không đúng
sự thật về người xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam;
d) Lợi dụng việc
nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam và việc xin giữ quốc tịch nước ngoài khi được nhập, trở lại
quốc tịch Việt Nam để xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam.
2. Cá nhân, tổ chức
thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều
này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định
của pháp luật; giấy tờ quy định tại điểm b khoản 1 Điều
này, giấy tờ được cấp trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều
này không có giá trị pháp lý, phải bị thu hồi hủy bỏ.
3. Trường hợp người
đã nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 19 của Luật Quốc tịch mà bị phát hiện có hành vi quy định tại điểm a khoản 1 Điều
này thì Bộ Tư pháp hoàn thiện hồ sơ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch
nước hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 33, Điều 34 Luật Quốc tịch Việt Nam và Điều 23 của Nghị định này.”
Thứ tư, quy định
chi tiết và hướng dẫn rõ hơn về các điều kiện xin giữ quốc tịch nước ngoài khi
xin nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam
Người xin nhập quốc
tịch Việt Nam thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật
quốc tịch Việt Nam, nếu đáp ứng đầy đủ tất cả 05 điều kiện sau đây thì được coi
là trường hợp đặc biệt quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật quốc tịch Việt Nam và
được trình Chủ tịch nước xem xét việc cho nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải
thôi quốc tịch nước ngoài:
- Có đủ điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định của
Luật quốc tịch Việt Nam;
- Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc Việt Nam và việc nhập quốc tịch đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài
là có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;
- Việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó khi nhập
quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó;
- Việc thôi quốc tịch nước ngoài dẫn đến quyền lợi của người
đó ở nước ngoài bị ảnh hưởng;
- Không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; xâm hại an ninh, lợi
ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Đối với trường hợp
khác (không thuộc đặc biệt), UBND cấp tỉnh và Bộ Tư pháp yêu cầu người đó phải
thôi quốc tịch nước ngoài theo quy định chung của pháp luật quốc tịch khi xem
xét hồ sơ quốc tịch.
Đồng thời, Điều 14
Nghị định cũng quy định các điều kiện mà người xin trở lại quốc tịch Việt Nam
thuộc khoản 5 Điều 23 của Luật quốc tịch cần đáp ứng để được coi là “trường hợp
đặc biệt” trình Chủ tịch nước xem xét quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam
và giữ quốc tịch nước ngoài.
Gồm các điều kiện
sau:
- Có đủ điều kiện trở lại quốc tịch Việt Nam theo quy định
của Luật Quốc tịch Việt Nam;
- Việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó khi trở lại
quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó;
- Việc thôi quốc tịch nước ngoài dẫn đến quyền lợi của người
đó ở nước có quốc tịch bị ảnh hưởng;
- Không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; xâm hại an ninh, lợi
ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Thứ năm, quy định cụ
thể hơn về trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong giải quyết hồ sơ xin nhập
quốc tịch Việt Nam
Bộ Tư pháp là cơ quan tham mưu giúp
Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về quốc tịch. Có trách nhiệm
kiểm tra hồ sơ, giải quyết theo thẩm quyền các việc về quốc tịch Việt Nam. Nghị
định quy định đối với hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch
nước ngoài mà không có đủ giấy tờ chứng minh thuộc trường hợp đặc biệt theo
quy định tại khoản 1 Điều 9 của Nghị định này, Bộ Tư pháp có văn bản thông báo
cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để yêu cầu người xin nhập quốc tịch tiến hành thôi
quốc tịch nước ngoài. Trong thời hạn 9 tháng mà người đó không bổ sung được
hồ sơ, không hoàn thiện đủ điều kiện hoặc không nộp văn bản của cơ quan có
thẩm quyền nước ngoài cho thôi quốc tịch nước ngoài, thì được coi là
người đó không tiếp tục xin nhập quốc tịch Việt Nam và Bộ Tư pháp trả lại
hồ sơ.
Thứ sáu, bổ sung
điểm mới về trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực quốc tịch.
Nghị định quy định
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về quốc tịch tại
địa phương, gồm 7 nhiệm vụ trong đó có hai nhiệm vụ mới là:
- Tổ chức Lễ trao
Quyết định của Chủ tịch nước cho nhập quốc tịch Việt Nam đảm bảo trang trọng, ý
nghĩ;
- Thu hồi hủy bỏ
những giấy tờ liên quan đến quốc tịch Việt Nam do Sở Tư pháp cấp trái quy định
của pháp luật.