1. Mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật
Điều 1 - Luật PCTN
năm 2018 đã thay cụm từ “xử lý người có
hành vi tham nhũng” bằng cụm từ “xử
lý tham nhũng” so với Luật hiện hành nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật
bao gồm cả việc xử lý người có hành vi tham nhũng, xử lý cơ quan, tổ chức, cá
nhân có hành vi khác vi phạm pháp luật về PCTN. Tại Chương VII của Luật đã quy
định việc áp dụng Luật PCTN đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.
Quy định này thể hiện tinh thần từng bước mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật đối
với khu vực ngoài nhà nước.
2. Mở rộng đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập
Những người có nghĩa
vụ kê khai tài sản, thu nhập được Luật này quy định tại Điều 34. Theo đó, các đối
tượng phải kê khai tài sản, thu nhập không còn được gói gọn ở một số cán bộ,
công chức như quy định tại Luật cũ, mà được mở rộng như sau: Cán bộ, công chức;
Sĩ quan công an nhân dân; sĩ quan quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp;
Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại các
đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp Nhà nước, người được cử làm đại diện phần
vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; Người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu
Hội đồng nhân dân (HĐND).
3. Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền
hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị
Luật quy định thêm một
số loại tài sản, thu nhập phải kê khai. Ngoài phải kê khai các loại tài sản,
thu nhập như quy định trước đây, như: Nhà, đất; Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy
tờ có giá mà mỗi tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên; Tài sản, tài khoản
ở nước ngoài. Luật mới yêu cầu các đối tượng nêu trên còn phải kê khai thêm
công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng.
Đồng thời, các đối tượng còn phải kê khai cả tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.
Đối với biến động tài
sản từ 300 triệu đồng/năm phải kê khai bổ sung theo khoản 2 Điều 36. Trường
hợp có biến động tài sản như trên mà không giải trình hợp lý về nguồn gốc tài sản,
cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập có trách nhiệm xác minh. Người có nghĩa vụ
kê khai phải giải trình về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai,
nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm. Đồng thời, có quyền khiếu nại quyết
định, hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc xác minh tài sản, thu nhập
khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật.
Nếu như trước đây, Luật
cũ không đề cập đến phương thức và thời điểm kê khai thì nay, Luật Phòng chống
tham nhũng 2018 quy định khá cụ thể. Theo đó, việc kê khai tài sản thu nhập được
thực hiện theo các phương thức sau: Kê khai lần đầu áp dụng đối với cán bộ,
công chức; Sĩ quan; Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở
lên. Việc kê khai phải hoàn thành trước 31/12/2019…; Kê khai bổ sung áp dụng với
người có nghĩa vụ kê khai có biến động về tài sản, thu nhập trong năm có giá trị
từ 300 triệu đồng trở lên. Việc kê khai hoàn thành trước ngày 31/12 năm có biến
động tài sản; Kê khai hàng năm áp dụng với người giữ chức vụ từ Giám đốc Sở và
tương đương trở lên; Người làm công tác cán bộ, quản lý tài sản công... Việc kê
khai hoàn thành trước ngày 31/12.
Khi kê khai tài sản
phải có bản kê khai tài sản, thu nhập phải được công khai, quy định này được thể
hiện tại Điều
39 của Luật. Bản kê khai của người dự kiến được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo,
quản lý được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm. Bản kê khai của người ứng
cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND phải được công khai theo quy định của pháp
luật bầu cử.
Theo khoản 3 Điều 51,
cán bộ, công chức kê khai không trung thực về tài sản, thu nhập có thể bị xử lý
kỷ luật bằng một trong các hình thức: Cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách
chức, buộc thôi việc hoặc bãi nhiệm.Trường hợp đã được quy hoạch vào các chức
danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đưa ra khỏi danh sách quy hoạch; trường hợp
xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm thì có thể xem xét không kỷ luật.
Trường hợp người được dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ
mà kê khai không trung thực thì không được bổ nhiệm, phê chuẩn hoặc cử vào chức
vụ dự kiến. Trường hợp người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND mà kê khai
không trung thực thì bị xóa tên khỏi danh sách những người ứng cử.
4. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị
Luật năm 2018 đã quy
định thành một chương riêng và sửa đổi, bổ sung nhằm cụ thể hoá và đề cao vai
trò của người đứng đầu.
Điều 72 của Luật này
quy định về trách nhiệm của người đứng đầu và cấp phó khi để xảy ra tham nhũng
trong cơ quan, tổ chức do mình quản lý, phụ trách như sau: Người đứng đầu phải
chịu trách nhiệm trực tiếp nếu người do mình trực tiếp quản lý, giao nhiệm vụ
tham nhũng; Cấp phó phải chịu trách nhiệm trực tiếp nếu xảy ra tham nhũng trong
lĩnh vực công tác và trong đơn vị do mình được giao trực tiếp phụ trách; người
đứng đầu phải chịu trách nhiệm liên đới.
5. Phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức
khu vực ngoài nhà nước
So với Luật hiện
hành, đây là chương mới, nội dung mới của Luật năm 2018, thể hiện sự nhấn mạnh
vai trò của doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước trong phòng, chống tham
nhũng. Luật quy định trách nhiệm của tất cả doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nói
chung trong việc xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh
doanh, quy tắc ứng xử, cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa tham nhũng. Bên
cạnh đó, Luật năm 2018 quy định việc áp dụng Luật PCTN đối với các công ty đại
chúng, tổ chức tín dụng, tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội
vụ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có
huy động các khoản đóng góp của nhân dân hoạt động từ thiện. Điều 80 Luật quy định
các doanh nghiệp, tổ chức này phải áp dụng các quy định về công khai, minh bạch
trong tổ chức và hoạt động; kiểm soát xung đột lợi ích; chế độ trách nhiệm của
người đưngs đầu. Đồng thời, Luật cũng giao Chính phủ quy định chi tiết về việc
áp dụng các biện pháp PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.
Luật cũng quy định về thanh tra việc thực hiện pháp luật về PCTN đối với doanh
nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước tại Điều 81.
6. Xử lý tham nhũng và các hành vi khác vi phạm pháp luật
về PCTN
Đây là chương có nhiều
nội dung mới được bổ sung, thể hiện sự nghiêm minh trong xử lý tham nhũng và
các hành vi vi phạm pháp luật về PCTN, tăng cường hiệu quả thực thi Luật PCTN
và hiệu quả của công tác PCTN. Đối với xử lý tham nhũng, so với Luật hiện hành,
Luật năm 2018 đã quy định rõ các nguyên tắc về việc xử lý tham nhũng (Điều 92,
Điều 93). Đối với xử lý hành vi khác vi phạm pháp luật về PCTN, Luật năm 2018
đã bổ sung quy định tại mục 2 Chương IX. Theo đó, Điều 94 liệt kê các hành
vi khác vi phạm pháp luật về PCTN và quy
định mang tính nguyên tắc xử lý đối với các hành vi này. Điều 95 Luật năm 2018
quy định xử lý hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về PCTN trong doanh
nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.