Tại
Kỳ họp thứ 10, ngày 13/11/2020, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi
phạm hành chính - Luật số 67/2020/QH14 (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022).
Theo đó, nhiều nội dung cơ bản, quan trọng của Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 (Luật XLVPHC) như: Mức phạt tiền tối đa trong một số lĩnh vực; thẩm
quyền, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính; thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính; đối tượng và điều kiện, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính; các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính… đã được sửa
đổi, bổ sung theo hướng bảo đảm thể chế kịp thời, đầy đủ đường lối, chủ trương
của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền
công dân, đồng thời, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật.
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính cơ bản khắc
phục những khó khăn, vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn thi hành pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính, qua đó, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành
pháp luật, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, góp phần phát triển kinh tế
xã hội.
1. Sự cần
thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC
Luật
XLVPHC được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực kể từ ngày
01/7/2013, trừ các quy định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định thì có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2014. Sau hơn 07 năm triển khai thi hành, bên cạnh những kết
quả đạt được, Luật XLVPHC đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập lớn, đòi hỏi
phải sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn, cụ thể:
Một là, đối với quy định
chung tại Phần thứ nhất của Luật XLVPHC, những khó khăn, vướng mắc tập trung chủ
yếu vào các vấn đề như: Quy định về giải thích từ ngữ “tái phạm” có sự
không thống nhất với quy định “đã bị xử phạt vi phạm hành
chính mà còn vi phạm” của Bộ luật hình sự (BLHS); sự không thống nhất
giữa quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 và điểm b khoản 1 Điều 10 về việc xử lý
đối với trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần”;
tại Điều 12 Luật XLVPHC quy định về những hành vi bị nghiêm cấm, tuy nhiên,
trên thực tế, còn một số hành vi vi phạm thường xảy ra trong quá trình áp dụng
pháp luật nhưng chưa được Luật XLVPHC quy định là hành vi bị nghiêm cấm...
Hai là, đối với công tác
xử phạt vi phạm hành chính, những khó khăn, vướng mắc chủ yếu tập trung vào các
vấn đề như: Mức phạt tiền tối đa trong một số lĩnh vực còn quá thấp, thiếu tính
răn đe; sự thay đổi tên gọi, chức năng, nhiệm vụ của một số chức danh có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính dẫn đến thay đổi về thẩm quyền xử phạt; thẩm
quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm bị giới hạn bởi thẩm quyền phạt tiền
dẫn đến tình trạng dồn quá nhiều vụ việc lên cơ quan cấp trên; thiếu quy định về
việc cấp trưởng được giao quyền cho cấp phó trong việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính; các quy định về thời hạn, thời
hiệu thực hiện các công việc chưa phù hợp thực tế; thủ tục thực hiện một số
công việc (như lập biên bản vi phạm hành chính, giải trình…) chưa cụ thể; quy định
về việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ trong việc phát hiện
vi phạm hành chính cũng gặp một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng do phạm vi
lĩnh vực được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ còn hạn hẹp,
chưa có quy định cụ thể về quy trình “chuyển hóa” kết quả thu được từ các
phương tiện, thiết bị do các cá nhân, tổ chức cung cấp thành chứng cứ để xác định
vi phạm hành chính; thủ tục xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính còn
nhiều bất cập; chưa có quy định về việc hoãn thi hành quyết định phạt, giảm, miễn
tiền phạt cho đối tượng vi phạm hành chính là tổ chức, chưa có quy định về thời
hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính…
Ba là, đối với việc áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính: Việc quy định điều kiện, đối tượng áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính theo Luật XLVPHC hiện hành khiến cho việc triển
khai công tác này trên thực tế rất hạn chế (đặc biệt là quy định thực hiện hành
vi vi phạm “02 lần trở lên trong 06 tháng”); quy định về
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với đối tượng nhiều lần thực hiện
hành vi vi phạm hành chính trong một số trường hợp không có sự thống nhất với
quy định của BLHS; thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc bị kéo dài không cần thiết do đối tượng phải trải qua biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; các quy định liên quan đến trình tự, thủ
tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn rườm rà, nhiều quy định chưa thống
nhất; một số quy định thiếu tính khả thi; thiếu quy định về việc áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đối với người sử dụng trái phép chất ma túy...
Bốn là, việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Luật
hiện hành cũng gặp nhiều vướng mắc, bất cập, cụ thể là: Việc quy định những trường
hợp được áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính quá hạn hẹp;
chưa có quy định cụ thể việc thẩm quyền tạm giữ của một chức danh có bị giới hạn
bởi thẩm quyền tịch thu của chức danh đó không (trị giá tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính bị tạm giữ có được vượt quá thẩm quyền tịch thu tang vật,
phương tiện không); thủ tục tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
còn rườm rà, chưa tạo điều kiện cho người có thẩm quyền thực thi nhiệm vụ trên
thực tế…
Năm là, đối với công tác
quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, khó khăn, vướng mắc chủ
yếu phát sinh trong công tác báo cáo định kỳ: Việc quy định chế độ báo cáo định
kỳ 06 tháng thực tế đã và đang gây nhiều khó khăn cho các bộ, ngành, địa phương
và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo do
quy định mật độ báo cáo định kỳ như vậy là quá dày, trong khi nội dung, yêu cầu
báo cáo nhiều, phức tạp.
Bên
cạnh đó, thời gian qua, một số Bộ luật, Luật mới được ban hành như: Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017) - BLHS; Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015; Luật Quản lý ngoại thương năm 2017; Luật Dược năm 2016; Luật
Thú y năm 2015; Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015; Pháp lệnh Quản lý thị
trường năm 2016; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017; Luật Cạnh tranh
năm 2018; Luật Quản lý thuế năm 2019; Luật Chứng khoán năm 2019… đã đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải rà soát, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số quy định của Luật
XLVPHC hiện hành để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và hiệu
quả công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính.
Xuất
phát từ những lý do trên, Chính phủ đã đề xuất Quốc hội đưa dự án Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật XLVPHC vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
năm 2020 (Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh năm 2019) nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý và thi hành pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2. Những điểm mới cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật XLVPHC
Như
đã nêu trên, trong khuôn khổ Chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, chiều
ngày 13/11/2020 vừa qua, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật XLVPHC với tỷ lệ 92,53% đại biểu Quốc hội biểu quyết tán
thành và Luật sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022. Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật XLVPHC được thông qua đánh dấu một bước phát triển mới trong việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng và hệ thống
pháp luật Việt Nam nói chung.
Về
bố cục, cũng tương tự như các dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều khác, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC gồm 03 điều, bao gồm:
-
Điều 1 - Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC (có 75 khoản);
-
Điều 2 - Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành án dân sự số
26/2008/QH12 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và
Luật số 23/2018/QH14).
-
Điều 3 - Hiệu lực thi hành.
Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC đã sửa đổi, bổ sung nội dung của 66/142 điều
(trong đó 16 điều sửa đổi, bổ sung toàn diện), sửa kỹ thuật 11/142 điều,
bổ sung mới 04 điều, bãi
bỏ 03 điều của
Luật XLVPHC hiện hành, với những điểm mới cơ bản sau đây:
2.1. Về những quy định chung
Luật
đã sửa đổi, bổ sung một số quy định chung tại Phần thứ nhất của Luật XLVPHC bao
gồm:
Thứ nhất, khoản 1 Điều 1
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung khái niệm tái phạm quy định tại khoản
5 Điều 2 Luật XLVPHC để bảo đảm thống nhất với quy định của BLHS, bảo đảm tính
công bằng, khách quan trong áp dụng pháp luật. Theo đó, tái phạm là việc cá
nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời
hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi
phạm hành chính đã bị xử phạt; cá nhân đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử
lý hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử
lý hành chính mà lại thực hiện hành vi thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử
lý hành chính đó.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung
nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với vi phạm hành chính nhiều lần tại điểm
d khoản 1 Điều 3 của Luật XLVPHC [1] theo hướng: Một người thực hiện vi phạm
hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp
hành vi vi phạm hành chính nhiều lần được Chính phủ quy định là tình tiết tăng
nặng. Quy định này sẽ góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi
hành thời gian qua liên quan đến quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 3 và điểm b
khoản 1 Điều 10 Luật XLVPHC hiện hành [2], bảo đảm thống nhất trong áp dụng
pháp luật trên thực tiễn
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung
quy định liên quan đến thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính và chế
độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Điều 4 Luật XLVPHC [3]:
(i) So với Luật
XLVPHC hiện hành, ngoài việc được giao quy định hành vi vi phạm hành chính;
hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành
vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức
danh và thẩm quyền lập biên bản đối với vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực
quản lý nhà nước; Chính phủ còn được giao quy định hành vi vi phạm hành chính
đã kết thúc và hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện; đối tượng bị xử phạt;
việc thi hành các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp khắc phục
hậu quả trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Quy định này sẽ góp phần bảo đảm
tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật (nghị định)
xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
(ii) Biểu mẫu sử dụng
trong xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
(iii) Giao Ủy ban thường
vụ Quốc hội, căn cứ quy định của Luật này quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động kiểm toán nhà nước và đối với hành vi cản trở hoạt động tố
tụng.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung
một số điểm của khoản 1 và khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC về thời hiệu xử phạt vi
phạm hành chính [4], theo đó:
(i) Tăng thời hiệu xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa đơn lên 02 năm, sửa đổi tên gọi của
một số lĩnh vực tại điểm a khoản 1 Điều 6 Luật XLVPHC để bảo đảm thống nhất với
Điều 24 Luật XLVPHC, đồng thời, quy định rõ vi phạm hành chính về thuế thì thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
(ii) Sửa đổi quy định
về thời hiệu áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại điểm a và điểm b khoản
2 Điều 6 Luật XLVPHC;
(iii) Bổ sung quy định về việc
tính thời hiệu trong trường hợp cá nhân cố tình trốn tránh, cản trở việc áp dụng
biện pháp xử lý hành chính theo hướng thời hiệu được tính lại kể từ thời điểm
chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
Thứ năm, bổ sung một số
hành vi vi phạm thường xảy ra trong quá trình áp dụng pháp luật nhưng chưa được
Luật XLVPHC quy định là hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 12 Luật XLVPHC như: Xác
định hành vi vi phạm hành chính không đúng; áp dụng mức xử phạt không đúng,
không đầy đủ đối với hành vi vi phạm hành chính; không theo dõi, đôn đốc, kiểm
tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả.
Việc bổ sung quy định này căn cứ vào thực tiễn kiểm tra công tác thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính thời gian qua, nhằm nâng cao năng lực, trách
nhiệm của người có thẩm quyền, góp phần bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong thi
hành công vụ và thực hiện đúng phương châm “Chính phủ kiến tạo”.
3.2. Về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà
nước
So
với Luật XLVPHC hiện hành, mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà
nước tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC [5] được sửa đổi,
bổ sung theo hướng:
(i) Tăng mức phạt tiền tối
đa của một số lĩnh vực như: Giao thông đường bộ; phòng, chống tệ nạn xã hội; cơ
yếu, quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia, giáo dục; điện lực; bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng; thủy lợi; báo chí; kinh doanh bất động sản.
Mức
phạt tiền tối đa trong Luật sửa đổi, bổ sung lần này được cân nhắc điều chỉnh
nâng lên phù hợp với tính chất xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước
của một số lĩnh vực, bảo đảm ý nghĩa răn đe và phòng ngừa của chế tài xử phạt
vi phạm hành chính, đồng thời để bảo đảm phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội
hiện nay ở nước ta.
(ii) Bổ sung quy định
mức phạt tiền tối đa của một số lĩnh vực như: Tín ngưỡng, đối ngoại; cứu nạn, cứu
hộ; in; an toàn thông tin mạng; kiểm toán nhà nước, cản trở hoạt động tố tụng.
(iii) Sửa
đổi tên của một số lĩnh vực như: Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh giống vật nuôi,
cây trồng thành trồng
trọt; sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi thành chăn
nuôi; dạy nghề thành giáo
dục nghề nghiệp; quản lý rừng, lâm sản thành lâm
nghiệp; thăm dò, khai thác dầu khí và các loại khoáng sản khác thành hoạt
động dầu khí và hoạt động khoáng sản khác; hạn chế cạnh tranh thành cạnh
tranh…
3.3. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Thứ nhất, Luật sửa đổi, bổ
sung tên gọi/bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành xuất
phát từ việc một số cơ quan, đơn vị được sắp xếp lại tổ chức bộ máy trong thời
qua. Ví dụ: một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc lực
lượng Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Quản lý thị trường, Hải
quan...
Thứ hai, Luật bổ sung một
số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc các lực lượng, cơ
quan như: Kiểm ngư (Điều 43a); Ủy ban Cạnh tranh quốc gia (Điều 45a); Kiểm toán
nhà nước (Điều 48a)...
Thứ ba, Luật đã chỉnh lý
quy định về thẩm quyền áp dụng hình thức tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính theo hướng:
(i) Bên cạnh thẩm
quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của các chức danh là cấp
cuối cùng của mỗi lực lượng đã được Luật XLVPHC hiện hành quy định, dự thảo Luật
bổ sung thêm 08 nhóm chức danh (chủ yếu thuộc các cơ quan được tổ chức theo
ngành dọc ở cấp tỉnh hoặc liên tỉnh) có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính không phụ thuộc vào giá trị tang vật, phương tiện [6].
(ii) Các chức danh
khác ở cấp cơ sở có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện có giá trị không
vượt quá 02 lần mức tiền phạt theo thẩm quyền để vừa tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
trong thực tiễn thi hành (phát sinh quá nhiều vụ việc vi phạm do trị giá tang vật
phương tiện vi phạm vượt quá thẩm quyền phạt tiền nên cơ quan cấp dưới phải
chuyển lên cấp trên, dẫn đến tình trạng ùn tắc, quá tải, không thể kịp thời xử
lý các hành vi vi phạm bảo đảm đúng về thời hạn và trình tự theo quy định của
Luật), vừa bảo đảm quyền lực được kiểm soát và giới hạn, tương xứng với nhiệm vụ
được giao.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung
quy định cụ thể về trường hợp chức danh có sự thay đổi về tên gọi nhưng không
có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó
được giữ nguyên và trường hợp có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn (tên gọi được
giữ nguyên hoặc có sự thay đổi) thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó do Chính
phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung
quy định về giao quyền xử phạt theo hướng cấp trưởng có thể giao cho cấp phó thực
hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, nhưng vẫn có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính. Trong thời gian được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính, cấp
phó có quyền hạn như cấp trưởng đối với phạm vi được giao, trừ quyền áp dụng biện
pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính (cấp trưởng chỉ được thực hiện việc
giao quyền áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính cho cấp phó
trong trường hợp cấp trưởng vắng mặt theo quy định tại Điều 123 của Luật
XLVPHC).
3.4. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
So
với Luật XLVPHC hiện hành, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung một số quy
định liên quan đến thủ tục xử phạt theo hướng tăng thời gian tiến hành một số
công việc, sửa đổi thủ tục thực hiện một số công việc bảo đảm tính cụ thể, rõ
ràng, phù hợp với thực tế, bảo đảm tính khả thi nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất
cập trong quá trình áp dụng pháp luật thời gian qua, cụ thể:
Một là, Luật đã sửa đổi, bổ
sung các quy định về lập biên bản vi phạm hành chính (Điều 58 Luật XLVPHC)
[7]theo hướng quy định nguyên tắc “phải kịp thời lập biên bản” và giao Chính phủ
quy định chi tiết nội dung này. Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định cụ thể về thời
hạn lập biên bản để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay, bảo đảm phù hợp với từng
lĩnh vực quản lý nhà nước; đồng thời, quy định cụ thể về địa điểm lập biên bản,
nội dung biên bản và bổ sung quy định về việc lập biên bản vi phạm hành chính
qua phương thức điện tử và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này...
Hai là, tăng thời hạn định giá
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại khoản 3 Điều 60 Luật XLVPHC [8] từ
24 giờ lên 48 giờ để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, đồng thời, bảo
đảm việc định giá cũng như xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chính
xác.
Ba là, sửa đổi, bổ sung
quy định về các trường hợp và thủ tục giải trình tại Điều 61 Luật XLVPHC [9] nhằm
bảo đảm tính khả thi trên thực tế. Theo đó, đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật có quy định hình
thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc
đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc quy định mức tối đa của khung tiền phạt đối
với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng
trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực
tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Về
thời hạn giải trình, Luật chỉ sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn đối với trường
hợp giải trình bằng văn bản, theo đó, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải
gửi văn bản giải trình cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính từ “trong thời hạn không quá 05 ngày” thành “trong thời hạn 05 ngày làm việc”, kể từ ngày lập biên bản vi
phạm hành chính. Trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì người có thẩm
quyền xử phạt có thể gia hạn nhưng không quá 05
ngày làm việc theo đề nghị của cá nhân, tổ chức vi phạm. Đồng
thời, Luật quy định rõ việc gia hạn của người có thẩm quyền xử phạt phải bằng
văn bản. Đối với trường hợp giải trình trực tiếp, Luật sửa quy định về việc người
có thẩm quyền xử phạt phải thông báo bằng văn bản cho người vi phạm về thời
gian và địa điểm tổ chức phiên giải trình trực tiếp từ “trong thời hạn 05 ngày” thành
“trong thời hạn 05 ngày làm việc”, kể từ ngày nhận được yêu cầu của
người vi phạm.
Bên
cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Luật đã bổ sung 01 khoản quy định về trường
hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không yêu cầu giải trình nhưng trước
khi hết thời hạn lại có yêu cầu giải trình thì người có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính có trách nhiệm xem xét ý kiến giải trình của cá nhân, tổ chức
vi phạm.
Bốn là, sửa đổi, bổ sung Điều
64 Luật XLVPHC [10] theo hướng mở rộng lĩnh vực được sử dụng phương tiện, thiết
bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính, bao gồm trật tự, an toàn
giao thông, bảo vệ môi trường, phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, phòng,
chống ma túy, phòng, chống tác hại của rượu, bia và lĩnh vực khác do Chính phủ
quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội...
Năm là, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ
sung quy định về tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính, hết thời hiệu thi hành, thời hiệu cưỡng chế thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính theo hướng:
(i) Người có thẩm
quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với những trường hợp
quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 65 Luật XLVPHC, nhưng vẫn phải
ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc tang
vật, phương tiện mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt tịch thu và áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính đó.
(ii) Đối với trường hợp
hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (quy định tại khoản
1 Điều 74 Luật XLVPHC) thì không thi hành quyết định đó nữa, nhưng vẫn phải tịch
thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả nếu quyết định xử
phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, biện pháp khắc phục hậu quả.
(iii) Đối với trường hợp hết
thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế (quy định tại khoản 2a Điều 88 Luật
XLVPHC) thì không thi hành quyết định cưỡng chế đó, nhưng vẫn phải cưỡng chế tịch
thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp
quyết định xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
Sáu là, Luật sửa đổi, bổ
sung quy định về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại Điều 66
Luật XLVPHC [11] để khắc phục những vướng mắc, bất cập phát sinh thời gian qua
như: Hầu hết các bộ, ngành địa phương đều cho rằng, thời hạn ra quyết định xử
phạt theo quy định của Luật XLVPHC hiện hành (07 ngày) là quá ngắn, không bảo đảm
tính khả thi, không phù hợp với thực tiễn, gây nhiều khó khăn cho người có thẩm
quyền xử phạt. Quy định về việc gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính gặp rất nhiều vướng mắc (đặc biệt là tiêu chí xác định thế nào là thủ
trưởng cấp trên trực tiếp thực hiện việc gia hạn), gây khó khăn cho người có thẩm
quyền xử phạt, dẫn đến tình trạng có rất nhiều trường hợp bị quá thời hạn ra
quyết định xử phạt, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của công tác xử phạt vi phạm
hành chính.
Do
đó, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 66 Luật XLVPHC theo hướng:
(i)
Đối với vụ việc vi phạm hành chính thông thường thì thời hạn ra quyết định xử
phạt là 07 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; vụ việc
thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn
ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành
chính.
(ii)
Riêng đối với vụ việc mà cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải trình hoặc phải xác
minh các tình tiết có liên quan quy định tại Điều 59 của Luật XLVPHC thì thời hạn
ra quyết định xử phạt là 01 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
Đối với vụ việc thuộc trường hợp cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải trình hoặc phải
xác minh các tình tiết có liên quan mà đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết
phức tạp, cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì thời hạn ra
quyết định xử phạt là 02 tháng, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
Việc
bỏ quy định về thủ tục gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt góp phần giảm thiểu
thủ tục hành chính, bảo đảm việc xử phạt vi phạm hành chính được nhanh chóng,
thuận lợi, kịp thời hơn, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của công tác xử phạt vi phạm
hành chính nói riêng và quản lý nhà nước nói chung.
3.5. Về thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính
So
với Luật XLVPHC hiện hành, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung quy định về
hoãn, miễn, giảm tiền phạt tại Điều 76 và Điều 77 Luật XLVPHC theo hướng bổ
sung quy định tổ chức cũng được hoãn, giảm, miễn tiền phạt để kịp thời tháo gỡ
khó khăn cho tổ chức/doanh nghiệp khi gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất
về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh…[12], cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc hoãn thi hành
quyết định phạt tiền được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
(i) Cá nhân bị phạt
tiền từ 2.000.000 đồng trở lên, tổ chức bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng trở
lên.
(ii) Cá nhân đang gặp
khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, mắc bệnh hiểm
nghèo, tai nạn; tổ chức đang gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do
thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh. Tùy từng trường hợp cụ thể, cá nhân,
tổ chức phải có xác nhận của các cơ quan, tổ chức sau: Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, làm việc; cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh tuyến huyện trở lên; Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản
lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.
Thứ hai, việc
giảm một phần tiền phạt ghi trong quyết định xử phạt đối với cá nhân, tổ chức
đã được hoãn thi hành quyết định phạt tiền được áp dụng khi:
(i) Cá nhân tiếp tục
gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh, mắc bệnh
hiểm nghèo, tai nạn và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư
trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, làm việc.
(ii) Tổ chức tiếp tục
gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn,
dịch bệnh và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc
cơ quan cấp trên trực tiếp.
Thứ ba, Luật
bổ sung quy định tổ chức cũng được miễn phần tiền phạt còn lại và miễn toàn bộ
tiền phạt ghi trong quyết định xử phạt bên cạnh quy định miễn tiền phạt cho cá
nhân như Luật XLVPHC hiện hành. Tuy nhiên, để được miễn phần tiền phạt còn lại
ghi trong quyết định xử phạt, tổ chức phải đáp ứng đủ các điều kiện, bao gồm:
(i) Đã được giảm một
phần tiền phạt theo quy định tại khoản 1 Điều này hoặc đã nộp tiền phạt lần thứ
nhất hoặc lần thứ hai trong trường hợp được nộp tiền phạt nhiều lần theo quy định
tại Điều 79 của Luật này.
(ii) Đã thi hành xong
hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định
xử phạt.
(iii) Tiếp tục gặp khó khăn
đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh
và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ
quan cấp trên trực tiếp.
Tổ
chức được miễn toàn bộ tiền phạt ghi trong quyết định xử phạt khi đáp ứng đủ
các điều kiện:
(i) Đã được hoãn thi
hành quyết định phạt tiền theo quy định tại Điều 76 của Luật này.
(ii) Đã thi hành xong
hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định
xử phạt.
(iii) Tiếp tục gặp khó
khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh
và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ
quan cấp trên trực tiếp.
3.6. Về đối tượng, điều kiện, thủ tục áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về đối tượng và điều kiện áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính:
Luật
số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến đối tượng và điều
kiện áp dụng các biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn,
đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với BLHS; quy định về độ tuổi,
số lần vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính... bảo đảm phù hợp với thực tiễn,
bảo đảm tính khả thi, cụ thể:
-
Quy định cụ thể các hành vi vi phạm là điều kiện để áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn;
-
Làm rõ hơn quy định “02 lần trở lên trong 06 tháng”,
thống nhất trong cách áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
-
Bỏ quy định về việc đối tượng phải vi phạm “02 lần trong 06 tháng”
là điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc để bảo đảm tính khả thi;
-
Bổ sung quy định về việc áp dụng các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
đối với người sử dụng trái phép chất ma túy (người từ đủ 14 tuổi trở lên đã hai
lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần
vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma
túy);
-
Bỏ quy định áp dụng biện pháp “tiền đề” giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với
người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định; đồng thời, sửa
đổi quy định về đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc theo hướng viện dẫn đến quy định của Luật Phòng, chống ma túy
nhằm tránh phát sinh xung đột giữa hai Luật.
Thứ hai, Luật số 67/2020/QH14 cũng đã sửa đổi, bổ sung các quy định
liên quan đến thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nhằm
đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn tối đa các mốc thời gian thực hiện các công việc.
Trong đó, đáng chú ý nhất là việc sửa đổi các quy định tại khoản 1 Điều 98, khoản
3 Điều 99, khoản 3 Điều 101 và khoản 3 Điều 103 Luật XLVPHC liên quan đến thủ tục
kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
theo hướng:
(i) Không quy định
việc kiểm tra tính pháp lý thành một thủ tục riêng biệt, độc lập;
(ii) Không quy định
thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã đối với
hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị
trấn; Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện đối với hồ sơ đề nghị áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở
cai nghiện bắt buộc. Thay vào đó, dự thảo Luật quy định rõ, cơ quan nào lập hồ
sơ đề nghị thì phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ.
Thứ ba, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý người
bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong thời gian làm thủ tục áp dụng
biện pháp xử lý hành chính tại Điều 131 Luật XLVPHC theo hướng:
(i) Đối với người bị
đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có nơi cư trú ổn định, cơ quan, người
có thẩm quyền lập hồ sơ quyết định giao cho gia đình quản lý đối tượng trong thời
gian làm thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
(ii) Đối với người
không có nơi cư trú ổn định hoặc có nơi cư trú ổn định nhưng gia đình không đồng
ý quản lý thì cơ quan, người có thẩm quyền lập hồ sơ quyết định: Giao cho trung
tâm, cơ sở tiếp nhận đối tượng xã hội hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc của tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương quản lý đối với người bị đề nghị áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người
vi phạm cư trú hoặc có hành vi vi phạm tổ chức quản lý trong trường hợp bị đề
nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
2.7. Bên cạnh
những vấn đề nêu trên, Luật số 67/2020/QH14 cũng sửa đổi, bổ sung quy định về các biện pháp ngăn chặn và bảo
đảm xử lý vi phạm hành chính như: Bổ sung trường hợp áp dụng
biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính tại Điều 122 Luật XLVPHC [13];
sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính tại
Điều 123 Luật XLVPHC [14]; sửa đổi quy định về biện pháp tạm giữ tang vật,
phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề tại Điều 125 Luật XLVPHC [15]; sửa
đổi, bổ sung quy định về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm
giữ, tịch thu tại Điều 126 Luật XLVPHC [16]; bãi
bỏ quy định về việc báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính định kỳ 06 tháng tại Điều 17 Luật XLVPHC nhằm giảm bớt
thủ tục và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp
thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo; bổ sung biện pháp thay thế xử lý vi
phạm hành chính giáo dục dựa vào cộng đồng (Điều
140a) áp dụng đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính...
Lời kết
Xử
lý vi phạm hành chính là công cụ quan trọng của quản lý nhà nước nhằm duy trì
trật tự, kỷ cương, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Đây cũng là một lĩnh vực
liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân, liên quan đời sống
hàng ngày của nhân dân được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm. Do
đó, cần phải được tổ chức phổ biến, quán triệt và thực hiện một cách hiệu quả
Luật, đặc biệt là những điểm mới, những thay đổi của Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật XLVPHC so với Luật hiện hành, góp phần đảm bảo trật tự, kỷ
cương hành chính; giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; đảm bảo các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước; đáp ứng yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước; đấu tranh phòng, chống
có hiệu quả đối với các hành vi vi phạm hành chính trong giai đoạn hiện nay./.